KHI MẢNG THỦY SẢN BẤP BÊNH, các “giỏ trứng” khác của ông Tới cũng trở nên mong manh. “Một trong các sai lầm lớn nhất cuộc đời tôi là không nhìn được ra thế giới. Lúc ấy tôi không có nhiều thông tin,” chủ tịch Nam Việt nói. Ông cho biết thêm, sau này tìm hiểu mới hay ferocrom nhiều nhất ở Nam Phi. Quặng ở Thanh Hóa là quặng sa khoáng chỉ chứa 60% crom, “quặng người ta là cục, tốt hẳn hơn mình.” Sản xuất toàn thế giới thu hẹp do ảnh hưởng suy thoái kinh tế. Hệ quả, giá các hàng hóa nguyên liệu rơi thẳng đứng và giá quặng ferocrom cũng không ngoại lệ. Dù đã xuất khẩu 80 triệu đô la Mỹ, làm tới đâu bán tới đó, nhưng càng làm càng lỗ. Năm 2009, ngôi sao của ngành thủy sản báo lỗ 178 tỉ đồng. Năm 2011, Nam Việt buộc dừng việc khai thác quặng ferocrom, chịu lỗ 300 tỉ đồng .
Không thành lập ngân hàng, ông Doãn Tới xoay qua rót tiền vào một “giỏ trứng” khác. Trước đó, năm 2007, giá phân bón diamon phốt phát (DP) có lúc lên mức 26 – 27 ngàn đồng/kg, trong khi giá thành sản xuất ở mức 7.000 đồng/kg. Sau dự án DAP 1 Đình Vũ thành công, tập đoàn Hóa chất Việt Nam – Vinachem quyết định đầu tư nhà máy DAP 2 Vinachem Lào Cai. Tận dụng nhiều mối quan hệ, ông Doãn Tới rót tiền thu gom, sở hữu 39% cổ phần của dự án có vốn đầu tư 5.000 tỉ đồng. Năm 2015 dự án mới đưa vào khai thác, lúc này giá bán sản phẩm còn 7.000 đồng/kg. Dự án Bắc tiến mà ban đầu ông Tới tự chắc mẩm “trận này chắc chắn không thể thua được” rút cục khiến ông lỗ thêm gần 1.000 tỉ đồng, tính cả chi phí cơ hội.
“Nếu như tôi đi đúng đường thì sức tôi phát triển rất nhanh. Không đúng hướng nên mình bị kẹt. Lĩnh vực khoáng sản, phân bón tôi coi là gãy rồi nên phải bắt đầu quay lại phục hồi ngành cá tra,” nhấp một ngụm trà ông Doãn Tới nói. Năm 2009, vị trí đầu ngành cá của Nam Việt về tay Hùng Vương. Năm 2010 đến lượt Vĩnh Hoàn vượt qua Hùng Vương và duy trì vị trí quán quân đến tận bây giờ. Các khoản đầu tư ngoài ngành trở thành gánh nặng với Nam Việt. Giai đoạn 2011 – 2014, kinh doanh thất thường, lợi nhuận Nam Việt có lúc chỉ vài tỉ đồng.
Sinh tại Thanh Hóa, mái tóc thưa, ở tuổi 65 chủ tịch Nam Việt bên ngoài nhìn vẫn khỏe mạnh do thường xuyên chơi quần vợt. Chủ tịch Nam Việt có 20 năm trong quân ngũ. Giữa thập niên 1980 cuộc sống khó khăn người sĩ quan công binh Doãn Tới có lúc buộc phải nuôi heo nhằm cải thiện cuộc sống. Chăn nuôi, có đợt ông thất bại vì chuồng trại, có đợt vì giống, có đợt vì thức ăn. Đợt sau cùng, heo phát triển rất tốt nhưng sau khi thu hoạch ông nhận ra “nghề chăn nuôi heo quá vất vả, phân bắn đầy lên người, hiệu quả kinh tế không bao nhiêu.” Đầu thập niên 1990, công tác tại tỉnh đội An Giang, ông dẫn một nhóm bộ đội đi làm kinh tế, xây dựng công trình, kinh doanh gỗ… có lúc nắm trong tay “đội xe xúc làm mưa làm gió ở miền Tây.”
Kinh nghiệm vụn vặt từ chuyện nuôi heo bất ngờ trở thành bước đệm quan trọng thay đổi cuộc đời ông Doãn Tới. Đầu thập niên 1990, cá tra được nuôi ở một số nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, ban đầu bằng bè ở sông Mekong, khúc sát biên giới Campuchia. Chi phí giống cao, cá giống dễ chết do thay đổi môi trường sống đột ngột khiến việc nuôi cá ban đầu cầm chừng do phụ thuộc nguồn cung từ tự nhiên. Năm 1995, Việt Nam thực hiện thành công mẻ cá sinh sản đầu tiên bằng phương pháp nhân tạo bước đệm ra đời ngành nông nghiệp cá tra tỉ đô la Mỹ sau này. Cú hích về khâu giống với số lượng lớn, giá thành hạ giúp nghề nuôi cá nhanh chóng mở rộng. Các bè cá lớn lần lượt xuất hiện tại tỉnh An Giang.
Một lần đi về Châu Đốc, ông Tới ghé qua bè cá và ngỡ ngàng với cuộc sống sung túc của nông dân: bè trải thảm, phòng gắn máy lạnh, có tivi... Hỏi kỹ, ông mới biết mỗi bè có thể cho sản lượng 230 tấn cá. Nghi ngờ, ông Tới hỏi sang bè cá thứ hai, thứ ba thậm chí năng suất còn cao hơn. Choáng váng ông Tới tính nhẩm trong đầu: “Nuôi 10 con heo mới được một tấn thịt, 230 tấn thịt phải nuôi 2.300 con heo, nối đuôi nhau xếp thành hàng dài gần 4 km, chăm sóc cần hàng trăm người. Trong khi đó một bè cá kích thước 25 m x 10 m cần sáu người để đạt sản lượng tương tự.”
“Bài học nuôi heo để sinh tồn” giúp ông Tới nhận biết ngay hiệu quả và cơ hội ở ngành nghề mới. Sẵn gỗ, ông Tới điều quân đóng một lúc 47 bè cá. Việc kinh doanh thắng lợi khi giá bán nguyên liệu 18 ngàn đồng/kg. “Cuộc đời tôi nhạy bén trong kinh doanh. Xét cho cùng trong kinh doanh là mình sản xuất ra một sản phẩm chi phí thấp và bán cao hơn. Đầu vào cộng lại là giá thành. Giá bán đầu ra trừ đi chi phí đầu vào tạo ra hiệu quả. Đơn giản như vậy thôi,” người sĩ quan không theo trường lớp đào tạo về kinh doanh nói.
Khi phong trào nuôi cá lan rộng, số lượng bè cá tăng vọt, không bao lâu xảy ra tình trạng cung vượt quá cầu. Agifish, công ty chế biến duy nhất tại An Giang thời điểm đó, hạ dần giá mua nguyên liệu. Năm 1999, ông Doãn Tới quyết định tìm đất xây nhà máy chế biến, giọt nước tràn ly từ việc Agifish hạ giá mua cá xuống còn 2.500 đồng/kg. Với công suất 30 tấn/ngày nhà máy đầu tiên đặt tại Long Xuyên. Có sẵn đội xây dựng, chi phí đầu tư vài tỉ đồng mua tủ cấp đông IQF. Ông Tới kể, ngày nhà máy khánh thành, mọi người tới chúc mừng ngoài mặt cười gượng nhưng ruột gan ông rối bời nghĩ ngày mai, ngày kia không có đơn hàng nào. “Lúc ấy tôi chết ở trong lòng rồi nhưng không thể để lộ ra. Mình phải tỏ ra lạc quan yêu đời, dù ngày mai có hi sinh trên mặt trận thì ngoài mặt vẫn phải bình thản,” vị cựu sĩ quan nói.
Tháng đầu, ông Tới mang 1 kg vàng, “hàng dự trữ chiến lược” bán được 94 triệu đồng dùng trả lương công nhân, trang trải tiền điện nước. Tăng cường ngoại giao với nhóm khách hàng từ Nhật, Hong Kong, Đức, Mỹ… rốt cuộc hai tháng sau ngày khánh thành nhà máy mới có khách hàng. Dù chỉ một container, giá trị 75 ngàn đô la Mỹ nhưng đơn hàng đầu tiên cũng giúp ông “từ vực sâu lên mặt đất.” Đơn hàng tiếp theo, 37 container xuất đi Mỹ giúp ông “từ mặt đất cất cánh”. Năm 2001, ông Doãn Tới xin phục viên với hàm thượng tá. Giá trị công ty được định giá lại, ông Tới trả tiền cho tỉnh đội.